Tác giả: Luật sư Chen Shanghai
1. Xác định mục tiêu giao dịch giả và lừa đảo
Tội lừa đảo cần đáp ứng yêu cầu chiếm hữu trái phép, bịa đặt sự thật để che giấu sự thật, khiến đối phương hiểu sai, lừa gạt tài sản của đối phương.
Tội lừa đảo hợp đồng được quy định tại Điều 224 Bộ luật Hình sự: Thuộc một trong các trường hợp sau đây, nhằm mục đích chiếm hữu trái phép, khi ký kết, thực hiện hợp đồng Trong quá trình tố tụng, ai lừa gạt tài sản của bên kia với số tiền tương đối lớn thì bị phạt tù có thời hạn không quá ba năm hoặc giam giữ hình sự, đồng thời hoặc bị phạt tiền duy nhất nếu số tiền rất lớn; hoặc có tình tiết nghiêm trọng khác thì bị phạt tù có thời hạn từ ba năm đến 10 năm, nếu số tiền đặc biệt lớn hoặc có tình tiết đặc biệt nghiêm trọng khác; bị phạt tù có thời hạn từ mười năm trở lên hoặc tù chung thân, đồng thời bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản:
(1) Ký hợp đồng với một đơn vị hư cấu hoặc đứng tên người khác;
(2) Sử dụng hóa đơn giả, bị thay đổi, vô hiệu hoặc các giấy chứng nhận quyền sở hữu giả khác để bảo đảm < /p>
(3) Nếu không có năng lực thực hiện thực tế, bên kia sẽ bị lừa tiếp tục ký và thực hiện hợp đồng bằng cách thực hiện trước một hợp đồng số lượng nhỏ hoặc thực hiện một phần hợp đồng;
(4) Nhận hàng hóa, thanh toán, tạm ứng hoặc tài sản bảo đảm của bên kia rồi bỏ trốn;
(5) Dùng thủ đoạn khác để lừa gạt tài sản của đối phương. Tội lừa đảo hợp đồng quy định trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng, chủ thể sử dụng các thủ đoạn lừa đảo như bịa đặt sự thật, che giấu sự thật để lừa gạt hợp đồng tài sản của bên kia.
Máy khai thác tiền ảo là tài sản theo nghĩa luật hình sự. Nếu thủ phạm bịa đặt và khai man rằng họ có máy khai thác tiền ảo để bán, cho dù người đó có hay không. ký hợp đồng mua bán có thể cấu thành Đối với gian lận hoặc gian lận hợp đồng, số tiền thiệt hại do gian lận thường được xác định dựa trên số tiền mà nạn nhân phải trả.
Vụ 1: Vụ lừa đảo hợp đồng của Xue [(2018) Lu 0522 Xingchu No. 41]
Tháng 7 năm 2017, bị cáo Xue đăng thông tin lên mạng và khai man rằng mình có thể liên hệ bán lô máy khai thác Ant S9 "Bitcoin". Nạn nhân là Lu muốn mua hàng của Xue và đã trả khoản đặt cọc 100.000 nhân dân tệ cho Xue thông qua chuyển khoản ngân hàng vào ngày 21/7. Vào ngày 24 tháng 7, cả hai đã ký một hợp đồng, đồng ý rằng Lu sẽ mua 122 máy khai thác Antminer S9 từ Xue với mức giá 9.500 nhân dân tệ mỗi chiếc. Lu sẽ trả trước 70% số tiền thanh toán với số tiền 811.300 nhân dân tệ. Vào ngày ký hợp đồng, Lu đã trả trước 711.300 nhân dân tệ cho Xue thông qua chuyển khoản điện thoại di động. Sau khi hết hạn hợp đồng, bị cáo Xue từ chối giao hàng và khai man rằng sẽ đưa số tiền 618.000 nhân dân tệ cho "Zhang từ Quảng Châu", người đã cung cấp hàng cho anh ta. Sau đó, anh ta mất liên lạc với "Zhang" và không thể liên lạc được. để thực hiện hợp đồng. Vào ngày 1 tháng 9 năm 2017, Xue đã trả lại 70.000 nhân dân tệ cho Lu và lừa Lu số tiền thanh toán là 741.300 nhân dân tệ.
Tòa án cho rằng:
Bị cáo Xue có mục đích chủ quan là chiếm hữu trái phép tài sản tài sản của bị hại là do bị cáo Xue có ý định lừa đảo ngay từ đầu không có năng lực thực hiện hợp đồng. Xue khẳng định nguồn gốc của máy khai thác được mua từ "Zhang", nhưng Xue không có bất kỳ hợp đồng bằng văn bản nào với "Zhang", cũng như không có biên lai và biên lai thanh toán nào. Không rõ "Zhang" có hàng hay không. không nhớ quá trình liên lạc với "Zhang". Mặc dù Xue khẳng định đã liên lạc với "Zhang" thông qua WeChat, nhưng cơ quan điều tra không thể tìm thấy "Zhang" từ danh bạ WeChat trên điện thoại di động của anh ta. Xue đã cung cấp số điện thoại di động giả của "Zhang" cho nạn nhân Lu và cơ quan điều tra, với ý định chặn việc xác minh từ "Zhang". Tình trạng trên cho thấy Xue không mua máy khai thác từ “Zhang” và không có nguồn hàng. Thứ hai, bị cáo Xue có hành vi lừa dối trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. Trong quá trình tiếp xúc với nạn nhân Lu, Xue thuê một chiếc ô tô Mercedes-Benz và khai rằng anh ta tự mua, tạo cho nạn nhân ảo tưởng về khả năng tài chính mạnh mẽ; anh ta đã bịa đặt nguồn gốc của máy khai thác để nạn nhân trả nợ bằng hiện vật; và sau đó khai rằng anh ta đã mua nó khi yêu cầu thanh toán. Gọi cho người mua để thanh toán; cung cấp cho nạn nhân số điện thoại di động giả "Zhang". Thứ ba, bị cáo Xue không có ý định thực hiện hợp đồng. Trước hết, An xác nhận Xue có ý định trước tiên là lừa Lu tiền thanh toán, sau đó dùng tiền bán lại máy khai thác để kiếm số tiền chênh lệch rồi hoàn trả tiền. Thứ hai, Xue chưa bao giờ sống giàu có và thu nhập không lớn nhưng lại thuê một chiếc ô tô Mercedes-Benz với giá thuê hàng ngày là 1.100 nhân dân tệ; từ cuối tháng 7 đến ngày 1 tháng 9 năm 2017, anh ta đã chi 116.350 nhân dân tệ cho việc thuê xe; , trả 30.000 nhân dân tệ cho Tian, và giấu 200.000 nhân dân tệ, đồng thời hoàn lại 70.000 nhân dân tệ cho Lu, tổng cộng là 416.350 nhân dân tệ. Các hành vi nêu trên của Xue đều xảy ra sau khi nhận được số tiền 811.300 nhân dân tệ từ Lu. Theo đó, bị cáo Xue không có khả năng trả 618.000 nhân dân tệ cho “Zhang” và không có ý định thực hiện hợp đồng với Lu. Tóm lại, bị cáo Xue đã lừa dối bên kia một số tài sản rất lớn trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng với mục đích chiếm hữu trái phép và không có khả năng thực hiện thực tế. Hành vi của anh ta đã cấu thành tội lừa đảo hợp đồng và đáng lẽ phải bị xử lý. bị xử phạt theo quy định của pháp luật.
2. Khiếm khuyết về chất lượng và vi phạm thời hạn giao hàng
Tham gia vào việc bán máy khai thác tiền ảo hợp đồng Liệu các khiếm khuyết về chất lượng và vi phạm thời hạn giao hàng có thể bị coi là gian lận hay không là một điểm khó khăn trong thực tế.
Nội dung gian lận của gian lận hợp đồng nhắm vào các điều khoản chính của hợp đồng, tức là thủ phạm sử dụng việc ký hợp đồng như một phương tiện nhưng không có nghĩa vụ phải thực hiện hoàn toàn không có ý định thực hiện hoặc chủ thể thực hiện trước một phần nghĩa vụ hợp đồng và lừa dối đối tác để thực hiện nghĩa vụ, sau khi chủ thể thực hiện xong nghĩa vụ thì không còn thực hiện nghĩa vụ hợp đồng và chiếm hữu trái pháp luật. có được tài sản như của riêng mình. Ngoài ra, tội lừa đảo hợp đồng về mặt chủ quan phải có mục đích chiếm hữu trái phép. Trong quá trình xác định tội gian lận hợp đồng, việc xác định “mục đích chiếm hữu trái pháp luật” cần căn cứ vào các khía cạnh sau:
(1) Liệu thủ phạm có phải là thủ phạm hay không có khả năng thực hiện hợp đồng. Việc chủ thể có khả năng thực hiện hợp đồng hay không là cơ sở quan trọng để đánh giá tính chất của hành vi lừa đảo. Nếu chủ thể không có khả năng thực hiện hợp đồng, ký hợp đồng với người khác bằng cách bịa đặt sự thật và chiếm đoạt trái phép tài sản của chủ thể đó. bên kia sẽ bị coi là gian lận hợp đồng.
(2) Liệu thủ phạm có chiếm hữu trái phép tài sản của người khác hay không. Người thực hiện chiếm đoạt tài sản của người khác bằng cách bịa đặt sự thật nhưng không chứng minh được mình có mục đích chiếm hữu trái phép. Hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác theo thỏa thuận trong hợp đồng không phải là hành vi chiếm đoạt trái pháp luật. Tuy nhiên, nếu người phạm tội sau khi chiếm đoạt tài sản của người khác không có ý định thực hiện nghĩa vụ hợp đồng hoặc giấu tài sản bằng cách chuyển nhượng tài sản thì có thể xác định người này có mục đích chiếm đoạt trái pháp luật.
(3) Sự luân chuyển tài sản. Sau khi một chủ thể chiếm đoạt tài sản của người khác, anh ta nên đánh giá liệu chủ thể đó có mục đích chiếm hữu trái pháp luật hay không dựa trên sự luân chuyển tài sản. Sau khi hung thủ lấy được tài sản rồi phung phí, cất giấu hoặc lấy tiền bỏ trốn thì có thể xác định hung thủ có mục đích chiếm đoạt trái phép. Sau khi chủ thể có được tài sản, anh ta thực hiện các nghĩa vụ tương ứng theo hợp đồng và lên kế hoạch sử dụng số tiền hợp lý, điều này có thể chứng minh chủ thể có ý định chủ quan thực hiện hợp đồng và không có mục đích chiếm hữu trái pháp luật.
Tóm lại, những khiếm khuyết về chất lượng và vi phạm thời hạn giao hàng trong việc mua bán máy khai thác tiền ảo phải dựa trên việc họ có bịa đặt sự thật một cách khách quan và che giấu sự thật hay không sự thật. Nó được đánh giá một cách chủ quan xem có mục đích chiếm hữu trái phép hay không. Ví dụ, trong thực tế, thường xảy ra trường hợp máy khai thác do chính tác nhân bán có vấn đề nghiêm trọng về chất lượng và các thông số không nhất quán nghiêm trọng. Trong trường hợp này, cần phải xem xét liệu có đúng không. người bán đã sơ suất hoặc cố ý, chẳng hạn như tất cả các Nếu người mua đều gửi sai hàng, rất khó giải thích lỗi sơ suất trong trường hợp giao dịch tương lai, người bán với tư cách là người bán không đặt hàng với người bán; ngược dòng nhưng thay vào đó chiếm dụng khoản thanh toán máy khai thác của người mua hoặc chỉ ngược dòng Nếu bạn đặt hàng cho một phần của đơn đặt hàng và giao một phần theo thỏa thuận, nhưng lại trì hoãn việc giao phần còn lại và không thể thực hiện hàng hóa và sử dụng ngược dòng lý do không giao hàng không chỉ là vi phạm hợp đồng dân sự mà còn là vấn đề hình sự. Ranh giới giữa gian lận dân sự và gian lận hợp đồng tương đối mờ nhạt, đây cũng là một khó khăn trên thực tế và phải được phân tích gắn với các tình tiết cụ thể của vụ việc.
Nếu người bán máy khai thác tiền ảo thực hiện các hành vi trên, người mua có thể nộp đơn khiếu nại hình sự lên cơ quan công an địa phương. cơ quan công an từ chối khởi tố vụ án, người mua có thể nộp đơn xem xét lại, nộp đơn lên Viện kiểm sát nhân dân để giám sát kiểm sát hoặc khởi tố riêng lên Tòa án nhân dân.
3. Quy định pháp luật về truy tố hình sự
"Luật tố tụng hình sự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa China":< /p>
Điều 110 Bất kỳ đơn vị hoặc cá nhân nào phát hiện tình tiết tội phạm hoặc nghi phạm hình sự đều có quyền và nghĩa vụ báo cáo với cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Tòa án Nhân dân Báo cáo tội phạm hoặc báo cáo.
Nạn nhân có quyền tố cáo, tố cáo các sự việc hình sự hoặc nghi phạm hình sự xâm phạm quyền nhân thân hoặc tài sản của họ với cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Tòa án nhân dân.
Các cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân có trách nhiệm thụ lý báo cáo, tố cáo, tố cáo. Đối với những việc không thuộc thẩm quyền của mình thì chuyển vụ việc đến cơ quan có thẩm quyền để giải quyết và thông báo cho người báo cáo, người tố cáo, người tố cáo; đối với những việc không thuộc thẩm quyền của mình thì phải áp dụng biện pháp khẩn cấp, khẩn cấp; sẽ được thực hiện trước rồi chuyển đến cơ quan có thẩm quyền.
Nếu tội phạm ra đầu thú cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Tòa án nhân dân thì áp dụng quy định tại khoản 3.
Điều 111 Việc báo cáo, tố cáo, tố cáo có thể được thực hiện bằng văn bản hoặc bằng lời nói. Cán bộ tiếp nhận báo cáo miệng, tố cáo, tố cáo phải ghi biên bản và người báo cáo, người tố cáo, người tố cáo sau khi đọc chính xác sẽ ký tên hoặc đóng dấu.
Nhân viên tiếp nhận cáo buộc hoặc báo cáo phải giải thích cho người tố cáo hoặc người báo cáo trách nhiệm pháp lý đối với cáo buộc sai sự thật. Tuy nhiên, miễn là sự thật không bịa đặt hoặc bằng chứng bịa đặt, ngay cả khi sự thật của cáo buộc hoặc báo cáo không nhất quán, hoặc thậm chí bị cáo buộc sai, chúng phải được phân biệt nghiêm ngặt với cáo buộc sai.
Các cơ quan công an, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân có trách nhiệm bảo đảm an toàn cho người báo cáo, người tố cáo, người cung cấp thông tin và người thân thích của họ. Trường hợp người báo cáo, tố cáo, tố giác không muốn tiết lộ tên tuổi, hành vi tố cáo, tố cáo, tố giác thì phải giữ bí mật.
Tiến hành xem xét nhanh chóng và nếu tin rằng có tình tiết hình sự cần phải chịu trách nhiệm hình sự thì vụ án sẽ được khởi tố nếu xét thấy không có tình tiết hình sự hoặc các tình tiết hình sự rõ ràng là nhỏ và hình sự; trách nhiệm không cần phải điều tra, vụ án không được khởi tố và người tố cáo được thông báo lý do không khởi kiện. Nếu người tố cáo không hài lòng thì có thể xin xem xét lại.
Điều 113 Viện Kiểm sát nhân dân cho rằng cơ quan công an không mở vụ án để điều tra khi đáng lẽ phải mở vụ án để điều tra, hoặc người bị hại cho rằng Cơ quan công an nên: Nếu vụ án đã được đưa ra điều tra không được đưa ra điều tra và chuyển cho Viện kiểm sát nhân dân thì Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm yêu cầu cơ quan công an giải thích lý do không khởi tố vụ án. Nếu Viện kiểm sát nhân dân cho rằng lý do cơ quan công an không khởi tố vụ án là không chính đáng thì Viện kiểm sát nhân dân thông báo cho cơ quan công an khởi tố vụ án và cơ quan công an sẽ khởi tố vụ án sau khi nhận được thông báo.
Điều 210 Các vụ án tư tố bao gồm các trường hợp sau:
(1 ) Những vụ án chỉ được xử lý khi có thông báo;
(2) Các vụ án hình sự nhỏ mà nạn nhân có bằng chứng chứng minh điều đó;
;">(3) Những trường hợp người bị hại có bằng chứng chứng minh việc bị cáo xâm phạm quyền nhân thân, tài sản của mình thì phải truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật nhưng cơ quan công an hoặc cơ quan quản lý Viện kiểm sát nhân dân không truy cứu trách nhiệm hình sự của bị cáo.
Điều 211 Sau khi xem xét các vụ án tư tố, Tòa án nhân dân sẽ giải quyết lần lượt theo các tình tiết sau:
(1) Những vụ án có tình tiết hình sự rõ ràng và đầy đủ bằng chứng nên được xét xử tại tòa án;
(2) Những vụ án truy tố riêng thiếu bằng chứng hình sự , nếu công tố viên tư không thể cung cấp bằng chứng bổ sung thì nên thuyết phục công tố viên rút lại việc truy tố tư, hoặc vụ án sẽ bị bác bỏ.